BS Phạm Minh Triết
Rối loạn lo âu và rối loạn trầm cảm là hai dạng rối loạn được xếp trong nhóm rối loạn khí sắc. Rối loạn lo âu là một nhóm gồm những rối loạn liên quan đến sự sợ hãi quá mức dẫn đến những phản ứng bất thường và làm suy giảm những chức năng trong sinh hoạt, học tập và làm việc. Trong khi đó, trầm cảm là rối loạn liên quan đến sự trầm buồn quá mức dẫn đến sự suy giảm về chức năng trong sinh hoạt và nhận thức cùng với những biểu hiện của triệu chứng liên quan đến cơ thể do tâm lý (1,2).
Tại Mỹ, nghiên cứu cho thấy, cứ 100 trẻ em thì có khoảng 7 em mắc rối loạn lo âu và 3 em mắc trầm cảm (3). Tại Việt Nam, trong 100 trẻ em từ 6 đến 16 tuổi có khoảng 7 trẻ mắc rối loạn lo âu và 6 trẻ bị trầm cảm (4).
M*. là một học sinh nữ lớp 10 được gia đình đưa đến khám vì tự cắt tay mình để tự tử. Từng là một học sinh xuất sắc trong những năm học cấp 2, khi vào lớp 10, sau một lần nhận được điểm 8 cho bài kiếm tra 15 phút, M. cảm thấy đó là một thất bại không thể chấp nhận được. M. bắt đầu có cảm giác sợ tiếp tục bị thất bại trong những lần kiếm tra tiếp theo, cảm giác sợ hãi này tiếp tục và tăng lên mỗi khi gần đến thời điểm có kiếm tra. Vì bị cảm giác lo sợ choáng ngợp, nên M. không thể tập trung làm bài kiểm tra được, kết quả là điểm của những bài kiểm tra này ngày càng thấp. Từ một học sinh xuất sắc luôn đi đầu trong những hoạt động ngoại khóa của trường, M. dần dần học kém đi và thu mình lại. Cho đến một ngày, vì không thể chịu đựng được cảm giác “bất tài”, “vô dụng”, M. tự cắt tay để kết thúc mọi chuyện.
Trường hợp M. là một trong những trường hợp diễn tiến thường gặp, khởi đầu từ một sự kiện tưởng chừng như bình thường (được điểm 8 trong bài kiểm tra), dẫn đến rối loạn lo âu (sợ thất bại trong những lần kiểm tra sau). Tình trạng lo âu kéo dài không được xử trí hợp lý dẫn đến trầm cảm và cuối cùng là hành vi tự tử.
Lo lắng là một biểu hiện bình thường ở con người. Nhờ sự lo lắng, con người có thể chuẩn bị tốt cho những sự kiện sắp xảy ra. Ví dụ: khi trẻ lo lắng về bài kiểm tra vào ngày mai, trẻ sẽ cố gắng ôn bài để chuẩn bị làm bài kiểm tra được tốt. Nhưng ở một số người, sự lo lắng phát triển quá mức tràn ngập tâm trí của họ. Vì vậy, những người này không thể suy nghĩ hay chuẩn bị được gì cho sự kiện chuẩn bị xảy ra. Lúc này, sự lo lắng đã trở thành rối loạn lo âu (5).
Những biểu hiện của rối loạn lo âu rất đa dạng và ở trẻ em, những biểu hiện này đôi khi không được nhận ra. Trẻ có thể có những than phiền như đau bụng, nhức đầu và muốn ói. Trẻ cũng có thể có biểu hiện cáu gắt, dễ bực bội, chống đối hoặc tức giận, đặc biệt là khi trẻ phải đối diện với hoàn cảnh hoặc yếu tố gây sợ hãi. Trẻ nhỏ độ tuổi mầm non thường không nhận biết và không diễn tả được bản thân đang bị sợ hãi hoặc lo lắng quá mức nên việc phát hiện ra tình trạng rối loạn lo âu ở trẻ càng khó khăn (1). Có nhiều dạng rối loạn lo âu và việc phân biệt các dạng này chủ yếu dựa vào yếu tố gây ra sự sợ hãi, lo lắng (1,2).
Rối loạn trầm cảm cũng có nhiều phân loại, trong đó 2 nhóm trầm cảm thường gặp ở trẻ em là Rối loạn Trầm Cảm Chính và Rối loạn Trầm Cảm mãn tính. Biểu hiện chung của rối loạn trầm cảm là cảm giác buồn bã, trống rỗng hoặc tính tình cáu gắt, rất dễ bực bội cùng với sự suy giảm rõ những chức năng trong sinh hoạt, học tập và công việc. Ở trẻ em, biểu hiện cáu gắt, dễ bực bội thường gặp hơn là biểu hiện buồn bã (1,2,5).
Trong Rối loạn Trầm Cảm Chính, trẻ thường có biểu hiện buồn bã (hoặc cáu gắt, bực bội) và/hoặc biểu hiện mất hết hứng thú đối với những sở thích trước đây kéo dài ít nhất 2 tuần. Bên cạnh đó trẻ cũng có thể có tăng cân hoặc giảm cân rõ rệt, ngủ quá nhiều hoặc mất ngủ, chậm chạp, mệt mỏi, cảm thấy bản thân vô dụng hoặc có tội, khó tập trung, tuyệt vọng và có ý định hoặc hành vi tự tử. Trẻ mắc Trầm Cảm mãn tính cũng có thể có biểu hiện tương tự nhưng biểu hiện buồn bã kéo dài ít nhất 1 năm. Trẻ trầm cảm thường thu mình lại, thích ở một mình, học hành sa sút (1,2).
Việc can thiệp và điều trị những rối loạn lo âu hoặc trầm cảm thay đổi tùy theo độ tuổi của trẻ và mức độ của những biểu hiện. Ở độ tuổi nhỏ hơn 6, điều trị chủ yếu dựa vào can thiệp không dùng thuốc, trong đó phụ huynh và người chăm sóc trực tiếp đóng vai trò chủ lực. Với trẻ lớn hơn, việc điều trị thường là sự kết hợp giữa thuốc và can thiệp tâm lý. Một số trẻ có triệu chứng nặng có thể phải sử dụng thuốc sớm. Ngược lại, có những trẻ lớn có biểu hiện không ảnh hưởng nhiều, đôi khi chỉ cần can thiệp không thuốc. Nếu người mắc rối loạn không học được những kỹ năng do can thiệp không thuốc cung cấp, việc điều trị thuốc có thể kéo dài, thậm chí suốt đời. Ở trẻ độ tuổi teen mắc trầm cảm, cần lưu ý đến nguy cơ tự tử, đặc biệt cần giám sát kỹ những trường hợp đã từng có hành vi tự tử trước đó (1,2).
Can thiệp và điều trị rối loạn lo âu hoặc trầm cảm cần nhiều thời gian và vì vậy sự hợp tác của bản thân trẻ, người chăm sóc và sự kiên trì. Điều trị tâm lý tập trung vào việc cung cấp, huấn luyện cho bản thân trẻ và người chăm sóc những kỹ năng để giúp trẻ tự điều chỉnh được những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi không phù hợp (5). Việc điều trị tâm lý chỉ thành công khi bản thân trẻ và những người xung quanh sử dụng được những kỹ năng đã được huấn luyện như những thói quen hàng ngày (giống như việc vệ sinh cá nhân, ăn uống). Không giống như việc điều trị thuốc trên những bệnh thông thường (ví dụ như viêm họng, viêm phổi hay tiêu chảy), phần lớn hiệu quả điều trị thuốc liên quan đến rối loạn lo âu, trầm cảm chỉ có thể biết được sau 2 tháng dùng thuốc liên tục (1). Việc điều trị thuốc thường dựa vào mục tiêu cân bằng giữa hiệu quả điều trị và tác dụng phụ và vì vậy, việc điều chỉnh liều thuốc và thay đổi thuốc điều trị trong giai đoạn đầu rất cần sự hợp tác và kiên trì của bản thân trẻ và người chăm sóc. Khi đã điều chỉnh được liều lượng thuốc phù hợp nhất với trẻ, thời gian dùng thuốc thường kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm (1,2).
(* Tên do người viết đặt để mô tả một trong nhiều trường hợp có thật)
BS. Phạm Minh Triết
Tài liệu tham khảo
1. American Academy of Pediatrics. AAP Developmental and Behavioral Pediatrics. 2nd ed. 2018.
2. Rey JM, Martin A, editors. M Rey’s IACAPAP e-Textbook of Child and Adolescent Mental Health. Geneva: International Association for Child and Adolescent Psychiatry and Allied Professions; 2019.
3. Ghandour RM, Sherman LJ, Vladutiu CJ, Ali MM, Lynch SE, Bitsko RH, et al. Prevalence and Treatment of Depression, Anxiety, and Conduct Problems in US Children. The Journal of Pediatrics. 2019 Mar 1;206:256-267.e3.
4. Weiss B, Dang M, Trung L, Nguyen MC, Thuy NTH, Pollack A. A Nationally-Representative Epidemiological and Risk Factor Assessment of Child Mental Health in Vietnam. Int Perspect Psychol. 2014;3(3):139–53.
5. David H. Barlow, V. Mark Durand, Stefan G. Hofmann, editors. Abnormal Psychology: An Integrative Approach. Eighth. Cengage Learning, Inc.; 2018.
Chia sẻ nội dung này!
Bài viết theo chủ đề